Nhân
vật được đề cập trước
tiên là người
phụ nữ xuất hiện trong bài Tiết Phụ
Ngâm của nhà thơ Trương Tịch đời
Đường (618 - 904).
Bài thơ
như sau:
TIẾT PHỤ NGÂM
Quân tri thiếp
hữu phu,
Tặng thiếp song minh chu.
Cảm quân triền miên ư,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh quang lư.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,
Sự phu thệ nguyện đồng sinh tử.
Hoàn quân minh chu song lệ thùy,
Hận bất tương phùng vị giá th́...
Dịch thơ:
LỜI TIẾT PHỤ
Chàng hay em có chồng
rồi,
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những mối cảm t́nh,
Em đeo trong áo lót ḿnh màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh quang.
Như gương vâng biết ư chàng,
Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng thề
xưa.
Trả ngọc chàng, lệ như mưa,
Hận không gặp gỡ khi chưa có chồng.
(Ngô Tất Tố dịch)
Phải
thừa nhận bản dịch trên đây của Ngô
Tất Tố thật tận thiện tận mỹ,
đáp ứng được ba yêu cầu cơ
bản "tín", "đạt" và "nhă"
do dịch giả Trung Quốc Lâm Cầm Nam (1852 - 1924)
đặt ra qua kinh nghiệm dịch hơn bốn
trăm đầu sách Âu Mỹ cùng một vài
nước khác. Bảo rằng tận thiện
tận mỹ, có nghĩa là ta chỉ cần biết
đến một ḿnh bản dịch thôi cũng
đủ nắm được vấn đề nêu
ra ở nguyên tác, không đến nỗi... sai một
ly, đi một dặm.
Đó là một
thiếu phụ có chồng làm lính túc vệ (chấp
kích) nên thường phải chịu cảnh cô
đơn. Người lính túc vệ ấy
tận tụy canh giữ tốt cho giấc ngủ
của nhà vua nên đă phải "bỏ ngỏ"
giấc ngủ của người vợ đẹp
và chính v́ thế, sự cố đă xảy ra.
Một chàng si
t́nh nào đó đă lợi dụng cơ hội ấy,
chinh phục nàng thiếu phụ bằng ngọc
quư. Nàng "đổ" ngay nhưng rồi
cuối cùng kịp nghĩ lại, nhận ra rằng
tiết hạnh của nữ giới c̣n quư hơn
ngọc nhiều.
Trương
Tịch đă đặt "độ nhấn"
cho tiết hạnh ở hai việc nhận ngọc và
trả ngọc.
Tặng một
lúc hai viên ngọc quư chứng tỏ chàng trai nọ
rất đỗi si t́nh và người thiếu
phụ kia đă bộc lộ bản chất một
vẻ đẹp kiêu xa (viết đúng chính tả).
V́ "kiêu"
nên chàng tuổi trẻ phải gây sự chú ư của
nàng là trả ngay giá cao gấp đôi (song minh chu)
để mơn trớn ḷng kiêu hănh trong khi chỉ
cần một viên cũng đủ bày tỏ ḷng tôn
trọng. V́ "xa" nên chàng trai nọ phải
đánh bại bằng lối xa xỉ nổi trội
hơn, ấy là tặng nàng loại ngọc thật
quư (minh chu) cốt ăn đứt loại ngọc
chồng nàng sắm cho vợ. (Kẻ xa xỉ chỉ
hâm mộ người xa xỉ "nặng đô"
hơn, c̣n với kẻ kém xa xỉ thường
bị họ khinh khi là quê mùa, keo kiệt). Như
vậy, ngay từ đầu đă diễn ra trận
đấu thầm lặng - có phần không cân
sức! giữa những viên ngọc. Trong
trận quyết đấu đó, tiết hạnh
đă hiện thân, khôn ngoan lùi lại, quan sát từ xa.
Rồi khi
thấy nàng đă nhận ngọc, lại c̣n tŕu
mến "đeo trong áo lót ḿnh màu sen" th́ tiết
hạnh đă kịp thời nhận ra nguy cơ,
thấy khó ḷng "sống" nổi, nên không thể
không can thiệp để tự cứu ḿnh.
Đấy cũng
chính là lúc người thiếu phụ bắt
đầu nhận ra mối nguy hiểm. Cái
"áo lót ḿnh màu sen" ấy chỉ kín đáo
trước mắt người dưng vô t́nh nhưng
c̣n với chồng nàng th́ đây lại là nơi
cuốn hút cái nh́n của y mănh liệt nhất trong
những "phút nghỉ ngơi của người
chiến sĩ" (theo cách nói của NietZsche) liệu
cách "đeo" trêu gan thế ấy sẽ làm cho
người chồng "chấp kích" nọ
bức xúc ra sao? Phản ứng ra sao đây?
Đă là lính
"chấp kích" th́ chỉ có "tiến"
chứ không lùi, chỉ có "dũng cảm xả
thân" chứ không có e dè tự vệ. Đă thế,
"kích" lại là loại vũ khí đa dụng
vừa có khả năng của trường
thương, vừa có khả năng của
trường kiếm nên uy lực rất lợi
hại, không thể coi thường. Ḷng tiết
hạnh của nàng chợt tỉnh cơn mê muội,
kịp thời đẩy lùi được ma lực
của "song minh chu" nói riêng và của "ái t́nh
lăng mạn" nói chung.
Thế là
đành phải cởi ngọc ở "hồng la
nhu" ra trả lại mất thôi! Nàng xót xa
quyết định và đă hành động như
thế. Và nàng khóc sướt mướt
"lệ như mưa" v́ "Hận không gặp
gỡ khi chưa có chồng". Tạo hóa
quả thật oái oăm! Phải chi nàng
đừng gặp phải người chồng
"chấp kích" vốn chỉ biết có mỗi
một việc là xả thân cho trung hiếu.
Phải chi nàng chỉ giữ tiết hạnh cho chàng
trai biết quư trọng nhan sắc nàng th́ cuộc
đời đẹp đẽ đáng yêu biết
bao! Nàng đă trải qua những phút giây bồng
bột yếu ḷng, đă mù quáng chiều theo sự
dẫn dắt của bản năng, bất chợt
lương tri kéo nàng quay về những suy nghĩ
đúng mực, dừng lại đúng lúc. Nói
một cách h́nh tượng th́ nàng đă làm vuột
mất tiết hạnh - giữa lúc đứng ở
cửa sổ lầu cao? - nhưng may mắn nhoài
người chộp lại kịp. Cái thâm "ư
tại ngôn ngoại" của những vần thơ
Trương Tịch chính là ở sự "hú vía"
đó - Không có vụ việc "hệ tại
hồng la nhu" th́ cái giá của tiết hạnh
chưa đáng kể là bao! V́ tiết hạnh
của nữ giới, nàng đành phải hy sinh
quyền sở hữu ngọc quư vốn là thứ
quyền mà người phụ nữ kiêu xa nào cũng
coi chúng quan trọng không thua ǵ bản mệnh.
Chỉ người tiết phụ ấy mới
cảm nhận đúng tầm vóc của sự hy sinh
lớn lao cao cả đó.
Trả ngọc chàng, lệ như
mưa...
T́nh cảnh nàng
thật đáng tội nghiệp! Chồng đă
không c̣n là chồng của nàng, ngọc cũng không
thể là ngọc của nàng. Đè nặng lên cả
chồng lẫn ngọc là hai chữ tiết hạnh!
Nàng ân hận là đă sớm lấy chồng
trước khi... lấy ngọc!
Chiến
thắng được sự thôi thúc mănh liệt
ấy của bản năng tuy thật vinh quang
nhưng độ vẻ vang của loại chiến
công ấy chưa ṣng phẳng với những
thương tổn của tâm hồn, nhất là tâm
hồn thiếu phụ.
H́nh như
Trương Tịch có phần trắc ẩn cho
mẫu nhân vật ông tạo ra. Tuy nhiên, xét cho cùng,
tiết hạnh đă làm t́nh làm tội nữ giới
nhưng bù lại, nó cũng làm tăng phẩm chất
nhân văn nơi nữ giới, nâng họ cao hơn
mặt bằng chung vốn thường có phần
thấp hèn của bản năng, của dục
vọng muôn loài. Khi ca ngợi hành vi lư trí ấy
của nữ giới, ta cũng nên đồng cảm
với phần t́nh cảm của họ. Trương
Tịch đă để cho người thiếu
phụ phải tuôn lệ v́ cuộc cân nhắc,
chọn lựa quá đỗi nặng nề.
Thế nhưng chính cuộc lựa chọn ấy
đă làm cho nhân vật của Trương Tịch
đậm đà t́nh người đúng mực
nhất.
Suy rộng ra,
hành động của người tiết phụ cho
ta thấy rằng nữ giới Trung Quốc ở vào
đời Đường (618 - 906) tuy vẫn coi trọng
tiết hạnh nhưng họ chẳng "cam tâm t́nh
nguyện" được bao nhiêu. Giới
thượng lưu - đặc biệt là phe phong
kiến thống trị - cố gh́m giữ nó bằng
những tấm biển "Tiết hạnh khả
phong" nhưng hẳn không ít trường hợp các
tấm biển đó vô h́nh trung giống với
khối gang h́nh cầu được gắng dính
với xiềng xích đeo vào chân họ của cuộc
sống ngục tù, đoạt mất quyền
tự do vươn tới t́nh yêu chính đáng, thứ
nhu yếu phẩm của sức sống con
người.
Nữ
nhân vật được bàn tiếp theo là người thiếu phụ nông
thôn trong ca dao Việt Nam. Theo tập quán
đặt tên cho ca dao th́ đây là bài "Trèo Lên Cây
Bưởi”:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm
xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay!
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày c̣n không?
Bây giờ em đă có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ?
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
Tuy thể
loại ca dao đ̣i hỏi bắt đầu bằng
những lời quanh co bâng quơ nhưng rốt
cuộc tấm ḷng tha thiết của chàng trai đă
gởi vào mấy lời thẳng thắn "Em có
chồng rồi, anh tiếc lắm thay!"
T́nh h́nh ở
đây th́ chàng trai có vẻ như hơi chậm phát
triển. Đến cái lúc biết thích "hái nụ
tầm xuân" th́ nụ đă thành hoa, cô gái
mới c̣n nô đùa ngày nào nay bỗng chốc trở
thành người khác của nhà khác mất rồi.
Anh xót xa nhận ra ḿnh đă để vuột mất
cơ hội quư báu nhất đời! Nói ra
lời hối tiếc vào lúc này chỉ để thay
cho lời xin lỗi về sự thờ ơ trễ
năi của ḿnh vậy. Cái "nụ tầm
xuân" ấy đă vâng theo sự dẫn dắt
của mấy "mớ trầu cay" nhưng anh
không hề níu kéo cái quá khứ hồn nhiên "thanh mai
trúc mă" của ngày nào được nữa.
Thái độ tôn trọng đúng mực của anh
tạo thuận lợi giúp cô bạn gái giữ an toàn
cho tiết hạnh. Nàng khỏi bị giày ṿ, tuôn
lệ tiếc hận. Tuy nhiên, với cảm tính
của nữ giới, nàng lờ mờ nhận ra anh
chàng có vẻ chả tiếc suông mà h́nh như muốn
tiến xa thêm nếu nàng không khéo léo ngăn chặn
đúng lúc. Kể ra, với quá tŕnh xưng hô
"tôi - cô" rồi "ta - nàng" đến
"anh - em" trong quá khứ, nay hóa ra "ai theo
phận nấy" có vẻ chẳng dễ cam
tâm. Mặc dầu vậy, sự tiếc nuối
chỉ là nỗi niềm bâng khuâng, man mác chứ không
quá đỗi ngậm ngùi. Lời trách móc của
nàng chưa đến nỗi ch́ chiết chua cay
nhưng cũng đủ an ủi một tâm hồn
trĩu nặng ân t́nh. Cả hai không ai "song
lệ thùy" như nàng tiết phụ của
Trương Tịch nhưng có lẽ họ cùng có
cảm giác rưng rưng dù họ không hận ǵ ông
Tơ bà Nguyệt. Ở họ, ư thức về
tiết hạnh h́nh như đă ngấm sâu vào tâm
khảm. Họ không lâm vào cảnh vướng víu
vùng vẫy tuyệt vọng như nàng tiết phụ
của Trương Tịch v́ từ bao đời
họ đă thấm nhuần tinh thần:
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau ḿnh…
(Nguyễn Đ́nh Chiểu: Lục Vân Tiên)
của nền
đạo lư Khổng Mạnh vốn đă trở
thành phương châm phấn đấu của
họ. Kẻ đă dốc ḷng lo cho trung hiếu
vẹn toàn th́ có thiệt tḥi t́nh cảm cũng cam ḷng,
có thờ ơ t́nh cảm cũng đáng thông
cảm. Nỗi thiệt tḥi, sự thờ ơ
ấy không làm giảm phẩm chất đạo lư mà
c̣n làm tăng lên giá trị bản thân họ.
Với kẻ
đă "yên bề gia thất" th́ họ thanh
thản chấp nhận sự tiết hạnh, không
nhọc công toan tính chuyện phá lưới sổ
lồng. Th́ ra đạo lư nhân loại phát
triển tương tự cây cối: phần
ngọn cây bao giờ cũng dồi dào nhựa
sống hơn phần thân cây, ở thân cây dù có nẩy
nở bao nhiêu cành nhánh cũng không sao xanh tốt
mạnh mẽ như ở ngọn. Tinh thần
trung hiếu tiết nghĩa vốn "mọc lên
từ quê hương Trung Quốc nhưng sức
sống của nó lại tỏa ra khá nhiều ở
Việt Nam vốn là nơi mà các tinh thần ấy
chỉ đến trong tư cách... khách mời. Và
đạo lư cũng giống với giáo lư
nữa: Phật giáo ở quê hương "Thiên
Trúc" (tên gọi Ấn Độ cổ đại do
người Trung Quốc đặt cho) không c̣n quy
tụ đông đảo tín đồ bằng ở
Thái Lan, Campuchia, My An Ma và hồi giáo của quê
hương Ả Rập Xê Út cũng không cung cấp
số tín đồ cuồng nhiệt "tuẫn
đạo" đông bằng Pakistan, Afghanistan,
Chechnya.. v.v..
V́ lẽ trên,
cụm từ "đặt đâu, ngồi
đấy" chỉ nẩy sinh trong ngôn ngữ
Việt Nam chứ trong chữ Hán bao đời nay không
hề có cụm từ "tọa kỳ sở
trí" cho có ư nghĩa tương đương.
Nữ
nhân vật thứ ba
được đề cập ở đây là
người vợ của một nhân viên toà Lănh
Sự Mỹ ở Kobe, Nhật Bản... Nhân vật này chỉ đóng
vai phụ trong truyện ngắn của nhà văn Anh
từng đoạt giải Nobel về văn
học: Somerset Maugham (1874 - 1965). Cốt
truyện đại khái như sau:
Trên một
chuyến tàu viễn dương, viên thuyền
trưởng bày tiệc chiêu đăi một số hành
khách chọn lọc. Người thiếu phụ
vợ nhân viên toà Lănh Sự Mỹ này đẹp lộng lẫy trông có
vẻ rất hớn hở khi được
chồng về phép đón nàng sang đấy du
lịch.
Tuy nhiên, nhân
vật thu hút sự khâm phục của cử tọa
lại là một người đàn ông được
tác giả gọi bằng cái tên đặc
biệt: ông Cái-Ǵ-Cũng-Biết và S. M. dùng tên
ấy làm nhan đề truyện ngắn của ḿnh.
Nh́n bề ngoài,
ông ta chẳng có ǵ nổi bật, nhưng mọi
cuộc chuyện tṛ về bất cứ đề tài
ǵ, ông ta cứ như một thỏi nam châm, các ư
kiến khác đều chỉ là bụi sắt.
Gă nhân viên toà Lănh Sự lặng lẽ đứng ngoài các câu
chuyện, chỉ hạ giọng giảng giải
mọi cách xử sự cho người vợ trẻ
non nớt kinh nghiệm xă giao, rồi cuối cùng ông ta
cũng nhận ra t́nh h́nh bữa tiệc. Máu
hiếu thắng đă lôi ông vào cuộc: Ông
cởi chuỗi ngọc trai trên cổ vợ, giơ
cao lên:
- Này, ông sành sơi
ơi! Theo ông th́ xâu chuỗi này thật hay giả
đây? Giá bán bao nhiêu?
Từ
khoảng cách nhau ngót năm thước, ông
Cái-Ǵ-Cũng-Biết nheo mắt mấy giây rồi
thấp giọng đáp:
- Tôi cho là
ngọc thật. Nếu đoán không nhầm th́ tôi
nghĩ giá nó không dưới hai ngàn đô nếu mua
ở một cửa hàng nào đó ở phố Kim Hoàn.
- Ông có dám
đánh cuộc không? Giọng gă nhân viên nghe có mùi khiêu khích. Y đă
bắt gặp vợ ḿnh nh́n trộm ông kia không
dưới một lần.
Ông nọ
cất giọng thật đĩnh đạc. Máu
cá độ cuả gă ta
đă ngấm vào ông từ nhiều năm.
Giọng ông trầm như tự nói với ḿnh:
- Sao lại
không nhỉ? Nếu xác nhận tôi sai, tôi xin
chịu mất 100 đô la! Ngài hăy nêu bằng
chứng đi!
Trong lúc
đối đáp, ông đưa mắt quan sát
người đàn bà. Quả là một nhan sắc
gây chú ư.
Giữa lúc
ấy, gă nhân viên không
giấu vẻ thích thú reo lên.
- Hoan hô! xin ông
giữ lời cho nhé! Đây là chuỗi ngọc
giả! Vợ tôi chỉ tốn 30 đô, hóa
đơn đây!
Ông
Cái-Ǵ-Cũng-Biết nhận ra rất rơ đôi mắt
đẹp của bà vợ gă nhân viên toà Lănh Sự trẻ tuổi ấy như
thất thần, tựa một chú nai con bị đàn
chó săn hung hăn xua giạt vào vách lưới.
Trông nàng như sắp sửa bị trúng gió.
Ông
Cái-Ǵ-Cũng-Biết, hiểu ngay t́nh h́nh ấy:
- Vô lư! xin ngài
cho phép tôi được xem lại chuỗi ngọc.
Gă nhân viên không
giấu vẻ mỉa mai, quẳng chuỗi ngọc lên
chiếc khay tên hầu bàn đang bưng rượu,
kèm theo cả tờ hóa đơn. Y c̣n ban thêm
"phát súng ân huệ" bằng cách vẫy vẫy
tấm hóa đơn trước khi ném nó lên khay.
Ông
Cái-Ǵ-Cũng-Biết kín đáo ném một cái nh́n
đồng lơa về phía người thiếu phụ
đang giấu mặt sau bờ vai vạm vỡ
của chồng. Ông không đếm xỉa ǵ
đến tờ hóa đơn, thờ ơ nhặt
xâu chuỗi, từ từ săm soi từng hạt.
Ông đưa nó lại gần mắt ḿnh rồi
từ từ đưa ra xa, dịch qua phải qua trái
tầm nh́n. Sau bờ vai người chồng,
người thiếu phụ có vẻ như ḱm từng
hơi thở. Chừng thấy như ḿnh diễn
xuất đă đủ, ông ta chầm chậm thở
ra một hơi dài:
- Lạy
chúa! Gă thợ này quả là có bàn tay bằng
vàng. Vâng, đúng là đồ giả! Thật
đáng tiếc...
Ông rút ví,
đặt lên khay tờ 100 đô. Vẫn không
để mắt đến tờ hóa đơn.
- Tên hầu bàn
bưng chiếc khay nhỏ trở lại chỗ
vợ chồng gă nhân viên toà Lănh Sự. Chiếc khay nhẹ
hẳn. Tiếng vỗ tay râm ran.
Gă nhân viên trả
chuỗi hạt cho vợ, giơ ly săm panh thật
cao hồ hởi reo to:
Hoan hô!
mời quí vị cụng ly chúc mừng sự giỏi
giang của kẻ… làm hàng giả nhé!
Y nhấn
mạnh đầy ngụ ư mấy tiếng "làm
hàng giả" khiến ông nọ nhăn mặt
như cố gắng quá sức để nuốt
một viên thuốc đắng. Người
thiếu phụ có lẽ là thực khách duy nhất
hiểu ra vẻ mặt cố ư làm hề ấy
của ông ta.
Ông
Cái-Ǵ-Cũng-Biết ực nhanh ly săm panh của
ḿnh. Ông cảm thấy trong mùi chua của
rượu mơ hồ có một vị đắng
không tên. Ông mắng thầm:
- Thật
là thằng ngu nhất đời mới để
vợ đẹp đến thế hằng năm
trời giữa chốn phồn hoa náo nhiệt như
Newyork.. Quả là đáng đời!
Về lại
ca bin ḿnh, đôi mắt quyến rủ của hoa khôi
bữa tiệc vẫn ám ảnh măi giấc ngủ
chập chờn của ông. Gần sáng, ông nhận
ra có ai đó đă nhét dưới khe cửa một
phong b́ nhỏ. Ông thừa biết chủ nhân nó là
ai.
Quả nhiên trên
phong b́ c̣n thoảng mùi nước hoa ấy có mấy
chữ viết vội. "Rất cảm
ơn". Bên trong là tờ bạc 100 đô la.
Truyện
ngắn trên của S. M. gần như được
"chuyển thể” từ bài Tiết phụ ngâm
của Trương Tịch tuy chỉ là chuyện
ngẫu nhiên của hai trí tuệ lớn gặp
nhau. Nhân vật của hai ông đều là gái có
chồng. Cả hai người thiếu phụ
cùng nhận ngọc tặng. Chỗ khác nhau là
thiếu phụ người Mỹ nọ tự
thấy không cần phải trả lại ngọc quư.
Không cần phải khóc hận v́ gặp nhau quá
muộn, mà nàng ta có hành vi trái lại rất nhiều.
Nàng thiếu
phụ da trắng nọ sẵn sàng vâng theo sự
dẫn dắt ngọt ngào của bản năng.
Nàng không hề biết đến xiềng xích của
tiết hạnh. Nàng phó thác mọi diễn
biến t́nh cảm cho định mệnh. Nói
đúng ra là nàng luôn thấy ḷng vâng theo ư Chúa.
Với nàng th́ thử thách, tha thứ, trừng
phạt, v.v.. đều là quyền uy thiêng liêng của
đấng Toàn năng. Từ nếp nghĩ bao
đời ấy, nàng luôn thấy ḷng ḿnh thanh thản,
chẳng phải chịu bất cứ trách nhiệm
nào, mặc t́nh tận hưởng những ǵ
được ân trên ban phát. Nàng sẵn sàng đón
nhận cái sẽ đến mà không băn khoăn
về cái đă qua, đúng với lối khái quát
ngộ nghĩnh của khoa Tâm lư học hiện
đại: "Người da đen sống cho
hiện tại, người da trắng sống cho tương
lai, người da vàng sống cho dĩ văng".
Ba nữ nhân
vật thuộc ba dân tộc ấy có lối suy
nghĩ và hành động hoàn toàn khác nhau và mang những
dấu ấn khá rơ nét của ba nền văn hóa Trung
Quốc, Việt Nam và Mỹ Quốc. Dù họ
không được tiến cử làm đại
diện chính thức cho nữ giới của dân
tộc ḿnh đi nữa, người đọc
vẫn không thể cho rằng họ không hề tiêu
biểu cho bản chất ba nền văn hóa ấy
được. Chính sự khác nhau giữa họ
đă góp phần làm phong phú cho bức tranh toàn cầu
hóa mà nhân loại dù muốn dù không cũng vẫn
phải công nhận là chuyện tất yếu phải
đạt đến.
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吳文赖老师 <photo>
(Thái Trọng Lai 太重来)
Việt Nam, 2006
|