NHỚ CHA THÍCH

 

 

 

 

 

Trong số các nhân vật tu hành - mà tôi có dịp hân hạnh tiếp cận - thuộc một số tôn giáo lớn, tôi được biết Cha Thích là vị chân tu vượt trội về khá nhiều phương diện.

 

Thời trai trẻ, Cha kư tên dưới tác phẩm ḿnh là Nguyễn Văn Thích, hiệu Sảng Đ́nh (đă thích th́ cảm thấy sảng khoái) nhưng về già cha lại kư tên là Nguyễn Hy Thích (- Nghĩa 1: hiếm cái làm ḿnh thích - Nghĩa 2: hy vọng ḿnh sẽ thích nghi). Cả hai nghĩa trên đều ám chỉ sự dị ứng của Cha về một số loại h́nh sinh hoạt xă hội mà vào thời trẻ Cha chưa hề từng trải.

 

Đă có nhiều trang tạp chí thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động đề cập khá kỹ cuộc đời Cha Thích nên tôi chỉ giới hạn phạm vi bài viết này trong vài ấn tượng hăy c̣n lưu giữ nguyên vẹn chất lượng trong tâm trí ḿnh.

 

Ấn tượng thứ nhất:  HỌC LỰC.

 

Thời trẻ Cha đeo đuổi Hán học, tham gia lều chơng đạt được cái Tú Tài th́ Hán học quay lưng với Cha. Cha quay sang Tây học, giật được cái bằng Thành Chung th́ Cha quay lưng với Tây học. Học như thế th́ như thế, “kiêm nhiệm” như thế, vào thời Cha là điều tương đối hiếm có, rất mực vẻ vang. Theo tôi biết chỉ có người thứ hai làm được như Cha là nhà báo Phan Khôi – nhưng ông thứ hai này chỉ chăm làm báo, nổi danh bài thơ T́nh Già, đă nếm trải đủ mùi “số phận vinh quang và cay đắng” (mượn cách diễn đạt của nhà văn Liên Xô) chứ không tham gia phong trào Hướng đạo sinh của thế giới cũng như không gởi đức tin của ḿnh vào Thiên Chúa giáo như Cha Thích.

 

Ấn tượng thứ hai:  VƯỜN TRẺ HƯƠNG LINH

 

Cha sáng lập và điều hành một vườn trẻ có vị trí và cảnh trí khá xinh đẹp. Cái tên Hương Linh Cha đặt theo tinh thần Ki Tô giáo, ngụ ư những linh hồn trong trắng đến thiêng linh, nhưng cái tên ấy lại gây không ít phản cảm cho dư luận xứ Huế, v́ đa số họ chỉ hiểu Hương Linh là cách gọi tôn kính các vị tiên linh, tức tổ tiên ḿnh (chứ không phải gọi…trẻ con!). Không ít người lắc đầu ngán ngẩm lối đặt tên rùng rợn ấy của Cha (Tôi nhớ cụ Hồ Đắc Định – dạy sử Trung Quốc – có lần nhắc tên vườn ấy bằng cái nhăn mặt như bị ai kéo tai hay ngắt véo mạn sườn ḿnh hoặc cả hai!). Tuy nhiên, vườn trẻ ấy của Cha vẫn tồn tại b́nh thản, đám trẻ ở đấy vẫn ngoan ăn chóng lớn b́nh thường.

 

Vườn tọa lạc bên ngoài hàng rào cổng trường Trung Học B́nh Linh (Pellerin) ở bến Ngự. Hàng ngày Cha đích thân cùng tài xế dùng chiếc xe tải nhỏ màu xám đưa đón trẻ em tận nhà.

 

Cha cũng mở ở đấy một lớp Hán văn miễn phí dành cho năm ba gă (có vẻ hơi hơi hiếu học) thuộc khóa I chúng tôi. Đôi lúc, không rơ nhầm lẫn sao đó, Cha mặc nhiên coi chúng tôi cũng thuộc “biên chế” vườn trẻ, có nghĩa là gây hao tổn thêm một mớ sô cô la, bánh sữa hoặc nhăn Huế chất lượng cao. Chúng tôi thưởng thức khá ồ ạt, hung hăn, chẳng chút khách khí, (có tí tẹo phái yếu nào đâu mà phải làm bộ dè dặt, ư tứ?). Nếu phụ huynh nào không may chứng kiến cảnh tượng ấy có lẽ họ tha hồ mà xót của, và không ngờ quà của họ lại nuôi đến cả các vị…Phù Đổng thiên vương!

 

Tiếp (1)

 

Ấn tượng thứ ba:  “NGHIỆN” VĂN HỌC DÂN GIAN

 

Ở Cha Thích, đây có lẽ thuộc yếu tố di truyền (Thân phụ Cha – cụ Nguyễn Văn Mại – vốn là tác giả Việt Nam phong sử, đăng nhiều kỳ trên tạp chí Nam Phong).

 

Cha Thích có biên soạn một cuốn – chất lượng thật cô đọng – tập hợp những thành ngữ, tục ngữ, chủ yếu do Cha sáng tác, có xen nhiều thành ngữ Hán khá ngộ nghĩnh. Thỉnh thoảng Cha mang công tŕnh ấy của ḿnh đến lớp, nhín bớt thời giờ dạy của ḿnh để đọc cho học tṛ nghe sa đà đến mức đôi tai bị bội thực. Tôi c̣n nhớ lơm bơm được vài câu, đại loại như:

 

Bầm gan tím ruột, phẫn tích ư tâm.

Đỏ mặt tía tai, nộ h́nh ư sắc…

 

Tôi cho rằng những câu đối xuất sắc được lưu truyền trong xă hội Á đông xưa nay, chắc ǵ có được mấy câu đạt chất lượng nghệ thuật “qua mặt” nổi câu ấy?

 

Ngộ nhất là có hôm nọ Cha đọc đến câu ca dao:

 

Ai mua con quạ bán cho,

Đen lông, đen cánh, bộ gị cũng đen.

 

Tôi nhận diện đây đúng là câu đồng dao có công dụng duy tŕ tính nhí nhảnh nghịch ngợm hồn nhiên cần có ở độ tuổi  ấu thơ. Điều ngộ nghĩnh làm tôi thật sự thích thú là vẻ mặt Cha trong giây phút ấy cũng bộc lộ hẳn chất trong trắng ngây thơ (Ngh́n lần xin lỗi linh hồn Cha!). Tôi từng đọc đâu đó một công tŕnh nghiên cứu rằng tâm linh có khả năng tác động nên sự giống nhau giữa hai cá thể: Hai đứa trẻ thân thiết với nhau tối đa, lâu ngày sẽ phát triển nhiều điểm giống nhau về diện mạo, tính t́nh, thị hiếu, v.v… Một đứa trẻ ưa thích thú cưng của ḿnh vượt mức b́nh thường cũng dễ xảy ra hiện tượng như vậy. (Ở Âu Mỹ, người ta thường tổ chức những cuộc tranh giải dành cho những người có vẻ mặt giống vật nuôi của ḿnh, đấy chưa hẳn là chuyện ngẫu nhiên thuần túy!)

 

Tôi lạc đề như trên v́ nhớ quá rơ vẻ mặt tươi hơn hớn – có phần nào kỳ quái – hôm  Cha đọc câu đồng dao nọ. Rơ ràng là có sự thẩm thấu nào đấy của Vườn trẻ Hương Linh, cơ sở mẫu giáo mà Cha toàn tâm toàn ư  phát triển nó. Tôi quan sát đầy thích thú hiện tượng ấy ở Cha c̣n chăm chú hơn cả những lúc nghe Cha giảng bài.

 

Thấy vẻ mặt tôi “thuỗn ra như chúa tàu nghe kèn”, cô bạn ngồi cạnh nhẹ nhẹ nắn khuỷu tay tôi, cười rúc rích, thầm th́ vào tai tôi chút giọng Huế:

 

-         Cha “tự họa” chân dung của Cha chớ quạ chi mô mà quạ!

 

Trạng thái say sưa của tôi thoắt chuyển ra trạng thái sững sờ. Trời đất! Cô ta quan sát mới tinh ranh làm sao! Đúng là Cha vẫn diện thường xuyên chiếc áo đen dài chấm gót kèm với khuôn vải choàng cùng màu đen lại đính phía trước cả một hàng nút đen chi chít giống như một hàng cờ vây bóng nhánh, rồi nào giầy đen, vớ đen nữa chẳng chệch chữ nào với câu đồng dao nhí nhảnh nọ! Ngay đến chú quạ thật cũng chưa chắc ǵ dám tự hào ḿnh đen hơn!

 

Tiếp (2)

 

Ấn tượng thứ tư:     DỊ ỨNG TỐI ĐA VỚI NGHỆ THUẬT TỨ BẢY.

 

Mỗi khi giảng bài, bắt gặp cơ hội có thể lạc đề sang lĩnh vực luân lư đạo đức là Cha Thích thẳng tay “nả đại bác” vào loại h́nh nghệ thuật mà Cha đổi ra cái tên “xi nê cởi truồng” (Cha “bắt chết” cách gọi này dùng làm thương hiệu độc quyền cho ḿnh!). Nhắc đến cụm từ ấy, lúc nào Cha cũng “nộ h́nh ư sắc” tức là…đỏ mặt tía tai hẳn hoi, mắt Cha long ṣng sọc, bọt mép sùi ra ph́ ph́, mất hết vẻ trang nghiêm hồn hậu thường nhật! Đă có lần tôi h́nh dung một cách lẩn thẩn rằng Cha rất sẵn sàng cởi phăng áo chùng, ném phắt thật xa, cung tay tung chân đấm đá thụi đạp tới tấp vào kẻ nào nghịch ngợm hay ác ư dám bô lô ba la rằng chính mắt ḿnh thấy Cha vào rạp “xi nê cởi truồng!” (Ngh́n lần xin lỗi Cha về việc “h́nh dung” lếu láo của con!).

 

Trong những sinh viên từng học môn Hán văn Cha dạy, có lẽ tôi là đứa nhẵn mặt nhất, kể cả việc chạm mặt ở thi vấn đáp một số kỳ thi ở Huế. Cha cũng từng “bốc” tôi lên xe Hương Linh đưa đi gởi gắm xin giờ dạy ở trường B́nh Minh (kết quả chỉ là một lời hứa rất mực ân cần của Trần tiên sinh!) Cha cũng đưa tôi vào “phụ việc” trong Ủy ban phiên dịch sử liệu của Đại Học Huế (chủ yếu là xử lư châu bản triều Nguyễn). Tắt một lời, Cha đích thực là một “quí nhân” pḥ hộ tôi…hơi bị nhiều và giữ đúng tinh thần chỉ “cho mượn cần câu” chứ không hề đăi cá kho tộ hay chiên xù ǵ cả. Tôi láng máng nghi ngờ rằng nhiệt t́nh của Cha dồn cho tôi có thể bắt  nguồn từ thời thơ ấu của Cha, có lẽ bấy giờ Cha sống trong tư dinh ở Ty Niết tỉnh Quảng Nam, lúc thân phụ Cha “ngồi” ghế Án sát ở đấy cũng nên.

 

Cậy ḿnh “có duyên” với Cha Thích nên đôi lúc tôi tỏ ra quá trớn, “dợt le” với bạn bè rằng ḿnh ngon lành chứ không thuộc diện “mặt lim gan sứa” như họ. Đối với Cha họ cứ bám riết tinh thần “kính nhi viễn chi” (Ngay cả sau lưng Cha họ cũng chỉ gọi là Ngài, là Người bằng ư thức viết hoa cẩn thận!). Nh́n chung họ “kính” khá nhiều và “viễn” càng nhiều hơn!

 

Bằng chứng cụ thể nhất xảy ra tại cuộc thi vấn đáp môn Hán văn ở Đại Học Sư Phạm Huế năm 1965. Bấy giờ tôi thi tốt nghiệp ban Việt Hán.

 

Hôm ấy, pḥng thi vấn đáp của môn Cha dạy hơi đông, ngồi đầy cả ba hàng ghế bởi ngoài đám thi tốt nghiệp của chúng tôi c̣n gom vào đấy cả đám thi cuối năm các lớp I và II nữa. Tôi ngồi dăy đầu, đối diện với Cha trên bục. Nghĩ đến viễn cảnh thầy tṛ chúng tôi sắp phải mỗi người mỗi ngả, cả Cha lẫn tôi đều cố nén nỗi bùi ngùi. Cha và tôi phát hiện lẫn nhau nỗi niềm ray rứt ấy. Câu thơ của Vũ Hoàng Chương chợt hiện về làm tê tái ḷng tôi:

 

Trùng lai đâu dễ hẹn kỳ,

Đ̣ ngang một chuyến chắc ǵ mai sau?

 

Lại thêm câu:

 

Hôm nay c̣n gặp mặt,

Ngày mai đă cách xa…

 

Cái ông thi sĩ bê tha nhất nước ấy quả đă hành hạ tâm hồn tôi thật tận mạng! Bỗng dưng tôi nảy ư… chế tạo một kỷ niệm thật xứng đáng để đời:

 

-         Thưa Cha, khi hôm con nằm nghĩ lan man nào dè nghĩ ra được một điều thú vị lắm Cha ạ!

 

Cha cười bằng đôi mắt nheo nheo:

 

-         Anh nghĩ chi mà thú vị?

-         Thưa Cha, con nghĩ đến Khổng Tử…

 

Nghe tôi báo cáo cuộc suy nghĩ của ḿnh có tầm vĩ mô đến thế, tiềm năng “Sảng Đ́nh” của Cha lập tức bừng dậy, Ché nh́n tôi đăm đăm chờ kể. Thấy tôi c̣n nấn ná…đợi giờ tốt, Cha háo hức giục:

 

-         Anh nghĩ chi về Ngài?

-         Thưa Cha, con nghĩ rằng…nếu cụ Khổng Tử nhà ḿnh may mắn sinh nhằm thời đại này, chắc cụ không bỏ sót một phim “cởi truồng” nào của các rạp Tân Tân, Châu Tinh, Khải Hoàn đâu ạ!

 

Đột nhiên Cha như bị trúng phong, cả người run rẩy, quắc mắt nh́n tôi như muốn… nuốt sống cái rột kẻ lếu láo vô giới hạn rồi lắp bắp khổ sở:

 

-         Răng…răng…anh dám… nói Ngài như…như rứa?

 

“Hỏng bét!”  Tôi đau khổ rên thầm. Cứ tưởng cù Cha để tăng ấn tượng cho kỷ niệm cuối cùng, ai dè lại cù nhầm vào yếu huyệt! Tôi tiếp tục đà tía lia, bụng hồi hộp theo dơi sắc diện Cha, không khéo phải gọi xe cấp cứu như chơi! Cũng may mà tạm thời chưa đến nỗi ấy:

 

-         Thưa Cha, sử sách ghi chép rành rành đấy thôi. Trong chuyến chu du sáu nước, khi thầy tṛ Ngài ghé nước Trịnh (hay nước Vệ ǵ đó con không nhớ chắc!), nghe dư luận ở đấy râm ran là có nàng Nam Tử đẹp hết sẩy, lại khét tiếng dâm đăng, thế là Ngài chíp bụng. Ngay ngày hôm sau, trời c̣n chưa sáng Ngài đă dậy kết thúc đêm mất ngủ, lay hoay chải chuốt rồi c̣n đi tới đi lui miết. Tử Lộ biết tỏng ư thầy ḿnh, nên chẳng những không chuẩn bị sẵn sàng xe đẩy (nhu mọi lần thầy đến nơi danh giá, quyền quư) lại c̣n mặt mũi chừ bự níu áo chặt cứng, lải nhải năn nỉ thầy đừng đi kẻo gây tai tiếng lắm, báo hại một vạt áo của thầy toác toạc. Ngài đành quay trở vào.  Tử Lộ thở phào, lo đi rửa ráy, bôi xức thuốc đỏ vào mấy vết trầy xướt do cuộc vùng vằng giằng níu lúc năy để lại. Xong xuôi ông ta ngao ngán trở lên nhà nhằm vuốt giận thầy, chợt phát hiện giường thầy ḿnh trống trơn. Tử Lộ tá hỏa, nào ngờ thầy ḿnh quay lại chỉ cốt để thay áo khác chứ đâu phải mọi chuyện đă cắt cơn…

 

Cả pḥng cười lên đủ mọi cung bậc. Đám thí sinh hôm ấy như quên cả ḿnh là ai. Cha Thích “nộ h́nh ư sắc” lần nữa, Cha đứng hẳn dậy, một tay vịn mép bàn, tay kia ch́a ngón trỏ điểm điểm vào mặt tôi, mắt vẫn quắc lên:

 

-         Anh …anh thiệt là…thiệt là…là…là…

 

Cha bí rị. Có lẽ Cha cố t́m một lời đích đáng nào đó dành cho kẻ xấc xược, quá ư bố láo như tôi, nhưng tính đến tận lúc ấy, cả nội ngữ lẫn ngoại ngữ, cả ngôn ngữ các tự điển lẫn ngôn ngữ đầu đường xó chợ cũng chưa có nơi nào chuẩn bị được cho Cha một từ có đủ kích thước phù hợp mức độ cần thiết thành thử măi đến nay tôi vẫn chưa hiểu dưới mắt Cha ngày ấy, tôi…thiệt là cái thứ ǵ! (cũng có thể lúc ấy Cha đă nhọc công t́m một từ xêm xêm hai tiếng “bá ngọ” trong Phật giáo, nhưng rồi Cha đành chịu phép!).

 

Phải thừa nhận rằng tôi giở ngón “giật đổ thần tượng” quá nặng tay (đúng chóc cái lúc Cha chắc mẩm rằng tôi sẽ suy tôn hết ḿnh nên hóa gay!). Cha bị sốc hơi nặng nhưng nh́n thấy tôi mặt mũi hiền khô không có chút xíu ǵ ác ư nên mớ nộ khí của Cha lục tục xuống thang. Tôi cho rằng Cha đă phát hiện âm mưu “chế tạo kỷ niệm” của tôi do tôi cố t́nh “diễn cương” quá lộng cho vai tṛ Tử Lộ…bôi thuốc đỏ! Lộ liễu đến thế ai mà chả hiểu, huống chi là Cha?

 

Cuộc đua cười vẫn tiếp tục đầy khí thế! (Thật là lộn xộn!. Tôi cù Cha chứ đâu có cù họ?). Lạ thay! Chính Cha Thích cũng có dấu hiệu bắt đầu tham gia! Cha nheo mắt cười nhưng nụ cười ấy có vẻ như sai địa chỉ, không chiếu đúng hướng vào mắt tôi mà chênh chếch lên phía bên trên tóc tôi chừng mấy xăngtimet. Tôi ngớ mất nửa giây rồi chợt hiểu ra nhờ có động thái là lạ sau lưng. Té ra tôi “bé cái nhầm” lảng nhách! Cha đâu thèm cười với tôi? Nụ cười ấy Cha dốc trọn cho anh bạn người Tam Kỳ học năm thứ nhất. Anh ta mới bắt chuyện làm quen với tôi trước đó hơn mươi phút. Anh ngồi cách tôi một hàng ghế, cố nhoài người lên phía trước, dùng ngón trỏ làm móc, ngoặc lấy cổ áo tôi giật giật, nhắc tôi cố nhớ xem hồn vía ḿnh đang ở đâu. Bông lơn bạt mạng như tôi có khác nào ôm bom lao vào xe địch, nổ banh xác ḿnh đă đành, nhưng kẻ ở tầm gần phải dính miểng là cái chắc! Anh ta vốn từng có thời kỳ đứng lớp, nay trông đă vào độ tuổi ‘băm” c̣n phải gồng ḿnh ăn ở biết điều mất vài năm nữa, rủi tôi gây vạ lây làm cho anh kẹt lại lớp th́ biết ăn nói làm sao với gia đ́nh?

 

Cha Thích phát hiện cảnh móc móc giật giật buồn cười đó. Cha trở lại vẻ điềm đạm mọi ngày, dịu giọng bảo anh chàng yếu vía nọ:

 

- Thôi! Móc giật chi nữa! Cha không làm chi anh mô! Anh L…mà! Nói xong câu đó, Cha mới ngó ngàng đến tôi bằng…nửa cái lườm cọng với nửa cái nguưt:

 

- Lên bảng đi cho rồi!

 

Tôi vội ngoái cổ mỉm cười đáp tạ thịnh t́nh của anh bạn Tam Kỳ pha chút tự đắc ngầm: “Thấy chưa? Cánh hẩu mà!”.

 

Cha Thích bắt tôi viết ám tả một đoạn văn rồi cắt nghĩa. Mọi việc diễn ra trơn tru. Tôi cúi đầu chào Cha lần cuối. (H́nh như tạo hóa trớ trêu cố t́nh bố trí cho tôi được biết tin tức của Cha Thích thật “cần và đủ” qua người cháu họ của Cha là một nữ tu ḍng Vincent ở Nha Trang sau đấy tám năm. “” ấy tỏ ra rất quư tôi do cùng lúc được Cha và một giáo sư Đại học Đà Lạt khuyên “Xơ” mời tôi phụ đạo. Thế nhưng khi tôi ghé thăm vào năm 1981 ở Cam Ranh, “xơ” nọ có nhă ư nhường tôi một di vật duy nhất của Cha th́ tôi kiên quyết khước từ v́ thấy ḿnh không đủ tư cách giữ món ấy bằng người cháu họ cùng tín ngưỡng của Cha)

 

Đă có người bảo thẳng tôi là kẻ chả ra ǵ nhưng khéo tạo vẻ “ngụy nghiêm túc” để qua mặt người khác, do đó Ban Lănh đạo Đại Học Huế đă hai lần chọn tôi làm đại diện sinh viên (cùng với Đoàn Thị Tiên Phước, học khóa II) tháp tùng phái đoàn Viện đi dự hai bữa tiệc VIP trong thành phố. Họ cũng có ư ngầm trách Cha Thích nương nhẹ với kẻ lếu láo như tôi (Tôi nghi cả chị Tiên Phước lẫn tôi đều do Cha Thích chọn theo…đơn đặt hàng của Cha Luận).

 

Thật ra, nhận định như thế mới chính là điều đáng chê trách!

 

Tṛ trêu chọc bông phèng của tôi nếu ai chịu suy nghĩ cho bài bản tất sẽ nhận rằng nó không hề nhằm phá hoại không khí nghiêm trang chốn học đường mà là cách giải tỏa hữu hiệu cho những stress của Cha nảy sinh do tuổi tác, do công việc, do cương vị, v.v…Không phải Cha “chịu thua” những tṛ xỏ lá ba que ấy của tôi mà là tự trong sâu thẳm cái tâm “Chân Như” của Cha đă ngầm ưa thích những tṛ đó (liệu có nhờ ở tính hiếu động của nề nếp Hướng đạo sinh ngày xưa sót lại?) Trong cung cách cư xử, Cha và tôi cùng có “mẫu số chung” là thoải mái coi lớp học như nhà ḿnh mà khẩu hiệu 视校如家 (thị hiệu như gia) th́ chính là câu tự khích lệ dành cho cả thầy lẫn tṛ đă xuất hiện nhan nhản bên trong cũng bên ngoài các trường học Trung Quốc từ đời năo đời nào! Đặc biệt ngày nay khá nhiều nước trên thế giới cùng có chủ trương nhân rộng điển h́nh “ngôi trường thân thiện” để thay thế h́nh ảnh những ông giáo làng lăm lăm roi mây, thước kẻ ngày xưa. “Ngôi trường thân thiện” suy cho cùng chẳng qua cũng chỉ là thứ bao b́ bóng loáng để gói ghém tinh thần “thị hiệu như gia” ấy mà thôi…không coi trường học như nhà ḿnh th́ thân thiện quái ǵ được?

 

Tôi cho là vậy.

 

 

 

Ngô Văn Lại  吳文赖

Đà Nẵng, Việt Nam, 10.2009

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*** 投稿電郵請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

啓明网站  |  Copyright ©  2009  KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer