Lương Thực Thu 梁實秋 tiên sinh (1903 – 1987), tên thật là Lương Trị
Hoa 梁治華, bút hiệu là Thu
Lang 秋郎, sinh tại Bắc Kinh, nguyên
quán Hàn Châu, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Ông đổ
Thạc sĩ tại Đại Học Harvard,
Hoa Kỳ, từng giảng dạy tại một số
đại học lớn ở Trung Quốc và Đài
Loan hơn 50 năm. Ông là
người đầu tiên dịch toàn tập của Shakespeare 莎士比亞 , cũng là người lập
kỷ lục cao nhất về xuất bản tác phẩm
văn xuôi hiện đại ở Trung Quốc. Ông
đă biên soạn nhiều quyển từ điển
Anh – Hán 英漢詞典. Điều đặc
biệt là từ năm 70 tuổi, ông đă viết hai
kiệt tác “英國文學史 Anh Quốc Văn Học Sử”
và “英國文學選 Anh Quốc Văn Học Tuyển”
Ông có thời từng bút chiến, tranh chấp về lập
trường văn học, với Lỗ Tấn 魯迅 .
MỘT
VỊ GIÁO SƯ QUỐC VĂN CỦA TÔI
Khi tôi khoảng
mười tám, mười chín tuổi, tôi đă gặp
một vị thầy Quốc
Văn; thầy đã cho tôi một ấn tượng
sâu đậm nhất, và cũng giúp tôi thu
nhận được nhiều điều bổ
ích nhất. Cho đến nay, tôi vẫn không thể nào
quên được thầy.
Thầy họ Từ,
tên Kính Trừng. Thầy hung gắt nên bọn tôi
đặt cho thầy biệt danh là “Cọp Từ (Từ
Lăo Hổ).” Thầy có ngoại h́nh rất kỳ quặc,
và đường viền đầu có góc, có cạnh,
dễ trở thành đối tượng để vẽ
tranh h́nh họa tiếu lâm. Đầu rất nhọn,
hói và bóng loáng, nhưng khuôn mặt th́ vuông vứt và dẹt,
hơi giống h́nh vẽ ác quỷ trong sách “Liêu Trai Chí
Dị.” Mũi, mắt và miệng của thầy
dường như tập trung quá mức ở một
vùng nhỏ trên khuôn mặt. Thầy đeo cặp kính
tṛng đen với gọng kính nhỏ như sợi dây
bạc; hai tṛng kính đen ấy trở thành đặc
điểm nổi bật nhất trên khuôn mặt của
thầy. Tôi thường vẽ tranh h́nh họa tiếu
lâm về thầy bằng cách phác thảo một ṿng, với
hai khối bầu dục màu đen ở giữa, rất
sống động. Thân h́nh thầy cao lớn,
nhưng vai luôn nhô gồ lên, chóp mũi hơi đỏ,
trong lỗ mũi giống như bã
rượu thường ẩn chứa hai ống
nước mũi trong suốt, thỉnh thỏang sụt sịt hít vào. Mỗi lần
nói một hai câu, thầy lại dùng sức hít
mạnh vào một cái, rất nhịp nhàng 1, tiết
tấu, nhưng đôi khi cũng có lúc quên, lúc
ấy hai chiếc đũa ngọc sáng bóng bèn treo lủng
lẳng ở môi trên, và thầy sẽ dùng mu bàn tay
lau đi. Thầy thường mặc một chiếc
áo choàng dài bằng vải màu xám, như thể đang
để tang ai đó. Khi chiếc áo choàng còn
được gọn gàng sạch sẽ thì
tôi chưa kịp thấy, đến khi tôi nh́n thấy,
nó đă bị lem luốc dầu rồi. Thầy hay
ngẩng đầu lên, bước đi với chân
chữ bát 2, mắt nh́n chằm chằm lên trời và miệng mím lại
như quả bầu. Rất hiếm khi tôi thấy
thầy cười, c̣n khi thấy th́ đó là một nụ
cười ghê rợn, dáng thầy trông càng hung tợn
hơn.
Trường tôi rất
đặc biệt. Các lớp học buổi sáng đều
được dạy bằng tiếng Anh, các lớp
học buổi chiều đều được dạy
bằng tiếng quốc ngữ. Lớp học buổi
sáng rất nghiêm túc, cứ ba ngày có kiểm tra
vấn đáp, năm ngày lại có kiểm tra viết.
Những ai không chăm chỉ học sẽ bị
loại. Các lớp học buổi chiều th́
thưa thớt và điểm số không liên quan đến
việc tốt nghiệp. Do đó, khi đến các
lớp buổi chiều đại loại như
Quốc Văn, học sinh không hào hứng và lớp
học thường thưa thớt trống
vắng. Tuy nhiên, khi thầy giáo giơ ngọn bút
ch́ lên với lối cầm bút lông để
điểm danh, tất cả học sinh đều có
mặt, v́ một học sinh có thể trả lời
“có” cho nhiều bạn khác. Trong số những
học sinh thực sự có mặt, một số
ngủ trưa ngáy nhẹ; một số đọc tiểu
thuyết như “Quan Trường Hiện Hình
Ký” và “ Ngọc Lê Hồn”; một số viết
thư cho bố mẹ với mô thức cổ
văn 3; và một số nh́n chằm chằm với đôi mắt mở to
lơ đảng, tâm trí lang thang phương trời
nào đó. Có lúc chúng lại trêu chọc
thầy. C̣n các giáo sư
Quốc Văn, đa phần đều là những vị
cao niên, đức hạnh, nếu không từng
đổ Bảng Nhăn 4,
thì cũng từng đổ Thám Hoa 4,
chứ không còn là chỉ đổ Cử
Nhân nữa. Các vị ấy giảng dạy qua các
câu chuyện, họ vui vẻ thực hiện một
cách chiếu lệ. Trong t́nh huống tồi tệ
như vậy, tôi nghĩ lư do tại sao thầy Từ
lại hung dữ như thế, luôn ủ rũ, liên tục
chửi bới, có lẽ là để tự vệ.
Một hôm, có lẽ
đă uống rượu quá chén, thầy loạng
choạng bước vào lớp. Đây là tiết
học về viết văn. Thầy cầm phấn
viết lên bảng được hai chữ,
chủ đề chưa viết xong, tất nhiên
thầy còn phải sụt sịt hít mũi như
thường lệ. Ngay lúc thầy đang hít, một
anh bạn mất kiên nhẫn bèn hỏi: “Chủ
đề này giải thích như thế nào
nhỉ?” Thầy quay lại, cười khẩy hai cái
rồi nổi cơn thịnh nộ: “Chủ
đề vẫn chưa viết xong, khi xong tất
nhiên tôi sẽ giải thích. Chưa viết xong tại
sao cậu lại hỏi...?” Thầy liên tục
gào thét và mọi người đều sửng sốt.
Đến lúc này tôi không còn ḱm nén được nữa.
Tôi luôn là một học sinh gây rắc rối vào buổi
sáng và an phận vào buổi chiều. Tôi cảm thấy
ḿnh bị xúc phạm một cách vô lư, tôi bèn đứng
lên phân biện vớt vát vài câu. Nào ngờ lần
này tôi rước họa vào thân, thầy trút hết
cơn giận dữ lên tôi. Ông ta đi đi
lại lại trên bục giảng,
khịt mũi chửi mắng tôi suốt một
giờ với rất nhiều lời cảnh
cáo; đến hôm nay tôi vẫn c̣n nhớ một
câu như thế này:
“XXX! Cậu là
cái thá gì? Tôi liếc mắt một cú là đă
đi guốc trong bụng cậu rồi!” Câu này
được các bạn học truyền tụng rộng
răi. Mỗi khi thấy bị phiền nhiễu trong
lúc căi cọ chút ít với tôi,
chúng đều trích dẫn câu “Cậu là
cái thá gì? Tôi liếc mắt một cú là đă
đi guốc trong bụng cậu rồi!” Lúc bấy
giờ, tôi thấy t́nh h́nh không ổn nên không nói thêm ǵ
nữa, chỉ phó đợi đến chuông giải
lao reo lên chấm dứt trận mắng của thầy.
Song, từ
đó trở đi, xem như thầy Từ đă
biết tôi. Sau khi tỉnh rượu, thầy
đă phê sửa bài luận văn của tôi rất chi
tiết. Phê sửa không chưa đủ, thầy
còn đặc biệt trực diện giải
thích thêm. Tôi, một học sinh loại “chỉ
liếc mắt một cú là đă đi guốc
trong bụng rồi”, hóa ra lại là học sinh
được hưởng lợi nhiều nhất.
Thầy Từ tự
ḿnh lựa chọn tài liệu giảng dạy, bao gồm
cả văn cổ lẫn văn bạch thoại,
rồi sao chụp dưới dạng in dầu phân
phát cho mọi người. “Lâm Cầm Nam Trí Thái
Khiết Dân Thư” là lá thư mà thầy giảng say
sưa đắc ý nhất 5. Ngoài ra,
thầy c̣n chọn không ít một số tác phẩm
như “Thượng Hạ Cổ Kim Đàm” của
Ngô Kính Hằng, “Âu Du Tâm Ảnh Lục” của
Lương Khải Siêu, bài xă luận “Thời
Sự Tân Báo” của Trương Đông Tôn. Loại
tài liệu giảng dạy kết hợp cả cái mới
với cái cũ như thế này là một ví dụ về
sự cởi mở hiếm hoi vào thời điểm
đó. Nhờ vậy, sự hứng thú của
tôi đối với môn Quốc Văn đă tăng
lên rất nhiều. Trước khi thầy Từ
giảng Quốc Văn, thầy giới thiệu tác giả
trước, và giới thiệu một cách rất
thân thiện. Ví dụ, khi thầy giảng về các
tác phẩm của Trương Đông Tôn, thầy nói:
“ Trương Đông Tôn này hả, thầy đă từng
ăn cơm tối cùng bàn với ông ta...” Những
lời như vậy có thể khiến học sinh ngạc
nhiên. Ngạc nhiên v́ thầy Quốc Văn của chúng
tôi có thể không phải là một người b́nh
thường, nếu không th́ làm sao thầy có thể
dùng cơm cùng bàn với Trương Đông Tôn!
Sau khi giới thiệu
tác giả, thầy Từ đọc qua toàn bộ bản
văn một lượt. Lượt đọc này rất
thú vị. Thầy dùng giọng chính thống của
Giang Bắc, nghiến răng nghiến lợi đọc
to một lần. Bất kể là văn cổ hay
văn bạch thoại, thầy đều ngâm vịnh
từng chữ một, như thể một diễn
viên đang đọc thuộc ḷng kịch bản của
ḿnh. Thầy dường như đă diễn đạt
hết ư nghĩa chứa đựng trong từ ngữ.
Thầy đọc có giọng có điệu, có giai có
nhịp 1, có cảm xúc, có khí thế, có trầm
bổng tiết tấu. Sau khi nghe xong, chúng tôi dường
như đă hiểu được một nửa ư
nghĩa của nguyên văn. Có thể là cường
điệu khi nói rằng một bài viết hay sẽ
tạo ra âm thanh lớn như kim loại và đá
rơi xuống đất, nhưng nó cần phải
thuận khẩu dễ nhớ, và điều này là
đúng.
Điều độc
đáo nhất ở thầy Từ là chỉnh sửa
luận văn. Ông không sử dụng những cụm
từ phê b́nh thông thường như “được,”
“rơ ràng và lưu loát,” hoặc “hài ḥa và đạt ư.” Thầy
sở trường sử dụng một thỏi mực
lớn vẽ đầy những móc câu và gạch xóa,
xóa từng ḍng, từng ḍng, móc từng
trang, từng trang; sau khi thầy móc và xóa, bài viết
có hơn một ngh́n chữ hầu như sót lại chẳng là bao. Lần đầu
tiên tôi bị cú dợt kiểu ấy,
tôi rất nản ḷng và cảm thấy hụt hơi.
Những câu văn mà tôi đă cố gắng moi ra từ
tim gan đă bị mấy thỏi mực của thầy
xóa sạch nhẹ nhàng. Nhưng thầy đă nghiêm túc
giải thích với tôi một hồi, thầy nói: “Cậu
hăy đem đi cảm nghiệm thật kỹ, bản
gốc của cậu mềm mại, dài ḍng và buồn
tẻ. Thầy đă gạch bỏ hơn một nửa
cho cậu. Cậu hăy đọc lại lần nữa
đi, ư nghĩa ban đầu vẫn chưa mất,
mà chữ chữ vẫn hiện rơ,
đầy sức sống.” Tôi suy ngẫm thật kỹ,
quả đúng là như vậy. Thỏi mực lớn
của thầy đă gạch đúng chỗ, loại bỏ
hết các vết phồng rộp và u nang, chỉ để
lại gân và xương. Thông qua những gạch xóa ấy
mới thấy được kỹ năng của thầy.
Nếu sau này tôi có thể viết bài mà không nói quá nhiều
lời vô nghĩa, vẫn có chút cứng rắn và ngay
thẳng, hiểu được một ít về nguyên
lư “tránh bỏ”, th́ tôi phải ghi nhận công lao của
thầy dạy.
Thầy Từ đă
dạy tôi nhiều kỹ xảo viết lách. Thầy bảo tôi, “tránh sử
dụng quá nhiều từ ngữ sáo rỗng.” Những
chỗ nên chuyển tiếp phải chuyển tiếp,
những chỗ nên kết nối phải kết nối.
Khi đó, bài viết sẽ đơn giản, chân thành
và mạnh mẽ. Thầy bảo với tôi rằng phần
đầu của bài viết là khó nhất, phải có
tính đột ngột và sôi nổi, đi thẳng vào
vấn đề, và đúng trọng tâm 6 để
hấp dẫn người đọc, không ṿng vo tam quốc,
không sáo rỗng. Thầy lại bảo với tôi là khi
viết về lư lẽ, nếu gặp chỗ nan giải
khó phân, nên dùng phép thí dụ sẽ giải quyết mọi
rối rắm dễ dàng, vô cùng gọn trơn và khéo
léo! Thầy đă dạy tôi rất nhiều bài học
sâu sắc như thế này, và vẫn c̣n hữu ích cho
tôi đến ngày nay.
Đă gần năm
mươi năm kể từ khi tôi rời xa thầy,
tôi chưa hề có tin tức ǵ về thầy, không biết
thầy hiện đang ở đâu. Tôi nghe nói thầy
đă trở về cơi tiên. Đám bạn học thỉnh
thoảng nhắc đến “Cọp Từ”, khi hồi
nhớ lại giọng nói và ngoại h́nh của thầy,
tôi không khỏi cảm thấy u buồn và ngưỡng
mộ.
Hàn Quốc
Trung 韓國忠
二零二五年 二月六日於美國,加利福尼亞州,洛杉磯
Chú Thích:
1. 有板有眼:
形容人的言語行事清晰有條理
cụm từ
“hữu bản
hữu nhăn” dùng để chỉ lời nói và hành vi rơ ràng, mạch lạc
2. Hai đầu bàn chân mở ra giống như chữ “八” (bát).
3. 父母親大人膝下:
Một cách
xưng hô ở đầu lá thư gởi bố mẹ theo mô thức
cổ.
4. 古代科舉,取得進士第一名被稱為“狀元”;第二名被稱為“榜眼”;第三名被稱為“探花”
Thời khoa
cử ngày xưa, người đổ đầu
tiến sĩ gọi là Trạng Nguyên 狀元 ; người
đổ thứ
nh́ gọi là Bảng Nhăn 榜眼; và người đổ
dứng thứ ba gọi là Thám Hoa
探花.
5. 眉飛色舞:
形容非常喜悅得意的神情
thành ngữ
“mi phi sắc vũ” dùng để chỉ niềm vui và sự đắc ư.
|