問蝦蟆  *  HỎI ỄNH ƯƠNG

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguyên tác:

 

問 蝦 蟆

 

蝦 蟆 為 民 乎

一 聲 起 深 莽

爾 鳴 何 遲 遲

昨 者 望 甘 雨

 

高 伯 适

 

 

 

 

Phiên âm:

 

VẤN HÀ MÔ

 

Hà mô vị dân hồ

Nhất thanh khởi thâm măng

Nhĩ minh hà tŕ tŕ

Tạc giả vọng cam vũ

 

Cao Bá Quát

 

 

*

 

Dịch nghĩa:

 

HỎI ỄNH ƯƠNG

 

Ểnh ương v́ dân ư?

Một tiếng nổi lên chỗ bụi rậm.

Mày kêu sao chậm dữ vậy?

Hôm qua (người ta đă) trông mưa đấy!

 

*

 

Dịch thơ:

 

Ểnh ương v́ dân à?

Cất tiếng trong bụi xa.

-Sao kêu chậm trễ thế?

Mong mưa từ hôm qua…

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  dịch

Nhà Nghiên Cứu – Đà Nẵng, Việt Nam, 2008

 

 

 

 

 

 

 

園中黄葵四絕

VIÊN TRUNG HOÀNG QUỲ TỨ TUYỆT

 

 

 

Nguyên tác:

 

園中黄葵四絕

 

其 一

海 天 夏 日 獨 宜 霜

庭 院 三 更 轉 作 凉

逗 漏 菊 花 消 息 處

一 枝 半 吐 已 深 黄

 

其 二

病 起 花 邊 灌 溉 頻

若 為 拔 去 恐 傷 貧

官 情 也 似 香 江 水

莫 把 公 儀 誤 世 人

 

其 三

雙 雙 相 倚 傍 柴 蘺

關 殿 群 芳 不 共 萎

可 惜 向 陽 心 獨 在

邇 來 三 月 立 炎 曦

 

其 四

倚 欄 遮 扇 恐 花 羞

人 世 光 陰 易 白 頭

可 記 故 園 風 月 否

十 年 香 邸 夢 中 遊

 

高 伯 适

 

 

 

 

Phiên âm:

 

VIÊN TRUNG HOÀNG QUỲ TỨ TUYỆT

 

KỲ NHẤT

Hải thiên hạ nhật độc nghi sương

Đ́nh viện tam canh chuyển tác lương

Đậu lậu cúc hoa tiêu tức xứ

Nhất chi bán thổ dĩ thâm hoàng

 

KỲ NHỊ

Bệnh khởi hoa biên quán khái tần

Nhược vi bạt khứ khủng thương bần

Quan t́nh dă tự Hương giang thủy

Mạc bả công nghi ngộ thế nhân

 

KỲ TAM

Song song tương ỷ bạng sài ly

Khai điện quần phương bất cộng nuy

Khả tích hướng dương tâm độc tại

Nhĩ lai tam nguyệt lập viêm hi

 

KỲ TỨ

Ỷ lan già phiến khủng hoa tu

Nhân thế quang âm dị bạch đầu

Khả kư cố viên phong nguyệt phủ

Thập niên Hương để mộng trung du

 

Cao Bá Quát

 

 

*

 

Dịch nghĩa:

 

BỐN BÀI TUYỆT CÚ VỀ QUỲ VÀNG TRONG VƯỜN

 

Bài 1

Chỉ một ḿnh (hoa qú) thích nghi với sương và mặt trời hè miền biển,

Lúc canh ba nơi sân trong đă chuyển mát.

Đợi đến lúc có tin tức hoa cúc,

Một cành mới nở phân nửa đă vàng sẫm.

 

Bài 2

Ốm dậy đă nhiều lần tưới tắm cho hoa,

Nếu nhổ đi sợ làm tổn thương cái nghèo.

T́nh nghĩa kẻ làm quan (trôi xuôi) như nước sông Hương,

Đừng nên đem cái nghi thức công cộng mà gạt người đời.

 

Bài 3

Dựa nhau song song cạnh hàng rào cành nhánh,

Trổ sau các hoa khác nên không rụi chung.

Đáng tiếc ḷng hướng về mặt trời chỉ c̣n lại đơn độc,

Gần đây tháng ba mặt trời đă oi bức.

 

Bài 4

Tựa lan can che quạt sợ hoa thẹn,

Sự sáng tối của thời gian cơi đời dễ làm người ta bạc đầu.

Có nhớ gió trăng vườn cũ chăng?

Mười năm Hương để (2) là cuộc mộng du.

 

*

 

Dịch thơ:

 

( Bài 1 )

Dang ḿnh nắng hạ lại thêm sương,

Đ́nh viện canh ba mát lạ thường!

Nấn ná chờ tin hoa cúc nở,

Một cành nọ hé sẫm hoa vàng.

 

( Bài 2 )

Ốm dậy liền chăm chút tưới hoa,

Nhổ đi sợ tội phận nghèo ta.

Quan trường t́nh nghĩa sông Hương chảy,

Nghi thức gây nhầm tưởng thế mà!

 

( Bài 3 )

Sóng đôi cùng tựa cạnh hàng rào,

Nở chót không chung cảnh úa xàu.

Thương bấy hướng dương riêng vẫn giữ,

Tháng ba nắng gắt chịu dang lâu.

 

( Bài 4 )

Tựa hiên che quạt thẹn giùm hoa,

Mái tóc thời gian giục tuyết pha.

Trăng gió vườn xưa c̣n nhớ phỏng?

Mười năm chờ chực giấc mơ qua.

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  dịch

Nhà Nghiên Cứu – Đà Nẵng, Việt Nam, 2008

 

 

 

Chú thích:

 

  1. Quỳ vàng: Tức hoa hướng dương (tác giả ví với ḿnh?)
  2. Hương để: Nhà khách trung ương (để) cạnh sông Hương (ở đây ám chỉ khu phủ đệ cũ của Tùng Thiện Vương).

 

 

 

 

 

 

 

 

*** 投稿電郵請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

啓明网站  |  Copyright ©  2010  KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer