Phiên
âm:
VỊNH TẢN VIÊN SƠN
Danh
sơn sơn thượng cổ kim truyền
Tứ
diện đoàn đoàn nhược tản viên
Vân mại
trùng tiêu tinh khả trích
Địa
dao vạn nhận thủy vô quyền
Yên hà
trường tỏa vô trần cảnh
Tuyền
thạch nhàn thê bất lão tiên
Đường
Ý đảm hàn, Cao thúc thủ
Nguy
nhiên Nam
cực trấn nam thiên
Cao Bá Quát
*
Dịch
nghĩa:
VỊNH NÚI TẢN VIÊN (1)
Ngọn
núi danh tiếng trên các núi khác, xưa nay đã truyền,
Bốn
phía nhìn vào thấy tròn tròn như vành cái tán.
Mây cao
tận trời có thể khều sao,
Đất
rộng vạn nhận (2) nước không có quyền.
Khói và
ráng trời khóa kín không còn cảnh trần gian,
Suối
với đá làm chỗ dựa thoải mái cho vị
tiên không già. (3)
Đường
Ý (4) lạnh mật, Cao (5) bó tay,
Chót
vót nơi cực nam trấn trời Nam.
*
Dịch
thơ:
Nổi tiếng hàng đầu tự bấy
nay,
Bốn bề nhận rõ tán tròn xoay.
Chọc trời đủ sức khều
sao xuống,
Cao vút dễ gì để nước vây?
Cảnh vật dành riêng tiên trẻ mãi,
Giang sơn che kín ráng cùng mây.
Cao Biền chịu phép, Đường Ý
khiếp,
Chất ngất trời Nam, trấn nước
này.
Thái Trọng Lai 太重来 dịch
Nhà
Nghiên Cứu – Đà Nẵng, Việt Nam, 2008
Chú thích:
1.
Núi Tản
viên: Tức núi Ba vì ở huyện Bất bạt,
tương truyền là cơ ngơi của Sơn
Tinh.
2.
Nhận:
Đơn vị cổ bằng 4 xích hay 8 xích (1m,26 hay
2m,52) ở đây họ Cao tả theo ấn tượng.
Truyền thuyết dân gian cho rằng nước dâng
đến đâu, núi cao đến đấy nên Thủy
Tinh đành thua.
3.
Tiên
không già: Ám chỉ Sơn Tinh, phò mã của Hùng Huy
vương, tức Hùng vương thứ 6, đến
nay vẫn sống ở đỉnh cao nhất với
tư cách Thần núi Tản viên.
4.
Đường
Ý: Chỉ Đường Ý tông, trị vì giai đoạn
860-873.
5.
Cao Biền:
Quan đô hộ có năng lực,
sang An Nam
đô hộ phủ năm 865 đến năm 875 thì
cháu nội là Cao Tầm sang thay. Thời kỳ cai trị, tương truyền Cao Biền
dùng bùa phép phá núi lấp sông để phục vụ sản
xuất và giao thông, nhưng đành bó tay khi động
đến thần núi Tản viên.
|