午夜编校感怀    NGỌ DẠ BIÊN HIỆU CẢM H̉AI

 

( DỊCH VÀ B̀NH )

 

 

 

 

Nguyên tác:   午夜编校感怀

 

儋州黎元笑佛先師親筆遺作

 

 

 

NGỌ DẠ BIÊN HIỆU CẢM HOÀI

 

( Di bút của cố giáo sư Tiếu Phật Lê Nguyên người Đạm Châu )

 

 

 

CẢM HOÀI LÚC NỬA ĐÊM BIÊN TẬP BẢN THẢO

 

Sài G̣n tháng 9. 1957

 

Mùa xuân 1950 ta dắt vợ con chạy sang Bắc Việt, tiếp đó sang Cao miên rồi đến Sài g̣n. May được giới chức lănh đạo Hoa kiều tiến cử làm nhật báo Á châu. Lúc đầu làm Tổ trưởng tổ chữa bài, sau thăng chủ nhiệm Pḥng Tư liệu kiêm Phó tổng biên tập.

 

Bảy thước thân trai khuỷu tựa bàn,

Tháng năm nhăng cuội vẽ vời khan.

Sao dời vật đổi người ngh́n dặm,

Rèm cuốn song treo nguyệt nửa vầng.

Ngấn lệ thêm hồng ḍng bút viết,

Mồ hôi rơi ngọc ánh đèn loang.

Con thơ vợ dại chờ xua đói,

Ngay ngáy ḷng lo chảo úp ngang.

 

 

Chú hai câu 5, 6:  Do khi biên tập toàn dùng bút đỏ - Vả lại đêm Việt Nam oi bức, bốn mùa đều là mùa hạ nên viết như thế.

 

Đọc thơ Tiếu Phật.

 

Người Pháp có câu nói  khá sâu sắc: “Đọc thơ là đi t́m ư nghĩa giữa hai hàng chữ”. Người Trung Quốc cũng rất khâm phục những nhà thơ đủ tài “đem ư để ngoài lời” (ư tại ngôn ngoại).

 

Người đọc nào không t́m ra “ư tại ngôn ngoại” trong thơ Tiếu Phật, chỉ biết nhận ra phần “ư tại ngôn nội” th́ tội nghiệp cho tài hoa Tiếu Phật.

 

Với bài viết này, Chi Nhất tôi cũng muốn giao lưu với những bạn yêu thơ Tiếu Phật qua bài NGỌ DẠ BIÊN HIỆU CẢM HOÀI.

 

Câu 1: Bằng án xanh đê thất xích khu,   (凭案撑低七尺驱)

 (Ngồi tựa bàn rướn cúi tấm thân bảy thước)

 

 Tác giả minh họa khá chuẩn xác việc lao động của người biên tập. Năm 1957 người viết vẫn duy tŕ thói quen viết đọc từ trên xuống dưới nên người chữa bài (biên hiệu) liên tục ngước lên đầu ḍng (xanh) rồi cúi xuống đến cuối ḍng (đê). Suốt bảy năm (1950-1957) làm măi cái việc đơn điệu ấy để kiếm tiền nuôi thân cùng vợ con. Phật Cười ngán ngẫm v́ chí trai vẫy vùng bốn biển, nay sống g̣ bó bên bàn viết th́ thật tù túng khó chịu. Nói cách khác ông là người hiếu động, nuôi chí lớn.

 

Câu 2: Niên niên y dạng họa hồ lô.   (年年依样画葫芦)

(Năm này sang năm khác y một kiểu vẽ hồ lô)

 

Hồ lô ở Việt Nam gọi là bầu nậm là loài dây leo mọc khỏe, mỗi mắc có tay bám h́nh ḷ so, hoa trắng, quả là hai khối bầu chồng lên nhau (thật ra người trồng dùng dâu mềm thắt eo tạo h́nh) Các tiên ông dùng vỏ quả đựng rượu và đựng … phép, thường quảy theo trên đầu gậy.

 

Vẽ hồ lô là vẽ những  h́nh tṛn to nhỏ kề nhau trông giống hồ lô. Tiếu Phật đánh giá việc “biên hiệu” là nghề vô vị, không tạo ra hứng thú, không có thành tích văn chương (bài báo kư tên tác giả, người biên tập phải nâng chất lượng nhưng lại vô danh!) Tiếu Phật “vẽ hồ lô” thuần túy v́ miếng cơm manh áo sống qua ngày chứ chả thấy hứng thú ǵ (may mà sau đó ông về dạy Khải Minh mười mấy năm mới thực là dịp vận dụng bốn năm học sư phạm trường Đạm Huyện (1933 - 37) ở quê nhà.)

 

Câu 3: Tinh di vật hoán nhân thiên lư,   (星移物换人千里)

(Sao dời vật đổi người ngh́n dặm)

 

Câu này chứa đựng một chi tiết thật thú vị cho tri thức nhân loại. Không nắm được chi tiết ấy là điều thiệt tḥi lớn cho sự cảm nhận chất thơ.

 

Mọi người thừa biết rằng ngôn ngữ là tài sản chung do loài người đóng góp qua nhiều đời, nhiều nơi, nhưng một từ ngữ nào đó là của ai, góp vào thời nào là điều quư hiếm nếu ta khám phá ra.

 

Chẳng hạn chế độ “cộng ḥa” người ta coi là do J.J.Rousseau (1712 – 1778) đề xướng nhưng tên gọi ấy đă có từ thời Chu Thành Vương (- 1104. 1068 trước Công nguyên) do hai nhân vật Chu công và Triệu công đặt cho giai đoạn cai trị thay vua.

 

Mấy chữ “Tinh di vật hoán” trẻ tuổi hơn nhưng cũng mang một tiểu sử hấp dẫn. Xuất xứ mấy tiếng ấy là câu thơ thứ 6 trong bài tự “Đằng vương các” của Vương Bột (650 – 675) đời Đường.

 

Vật hoán tinh di kỷ độ thu.

(Vật đổi sao dời đă mấy lần thu về)

 

Cái thú vị thứ hai ở cụm từ này là sự phản khoa học. Thời Vương Bột, hiện tượng sao băng được coi là sao dời chỗ. Ngày nay th́ ai cũng biết đấy là những mảnh thiên thạch trôi nổi trong vũ trụ chạm phải khí quyển quả đất đang quay.

 

Thế nhưng Phật Cười sao lại không hiểu? Cái thú vị là ở đó. Ngôn ngữ vốn có khả năng cưỡng chế. Nó buộc người ta phải dùng sai th́ mới chuyên chở ư thơ được. Hàng loạt biến cố lịch sử và xă hội làm thay đổi hẳn bộ mặt đại lục, đẩy Phật Cười chạy ḷng ṿng cả ngh́n dặm, chịu trăm cay ngh́n đắng cho việc mưu sinh nhàm chán (vẽ hồ lô!)

 

Câu 4: Liêm quyển song huyền nguyệt bán hồ.   (帘卷窗悬月半弧)

(Rèm cuốn cửa sổ treo nửa vầng trăng)

“Ư tại ngôn ngoại” là ở đây.

 

Tác giả không nói trăng tṛn mà chỉ nói nửa vành cung. Người đọc phải hiểu là vành cung không bị chặt đôi theo chiều ngang (v́ làm thế th́ không gọi nửa vành cung được?) mà phải chẻ dọc để có hai phần thật mảnh, có nghĩa là trăng đầu tháng hay cuối tháng. Vậy th́ đầu hay cuối? Người đọc buộc phải hiểu là cuối, v́ phải liên tưởng câu thơ Đường:

 

思君如月满

夜夜减清辉

 

Tản Đà dịch:

 

Nhớ chàng như mảnh trăng đầy,

Đêm đêm ánh sáng hao gầy đêm đêm.

 

Có ǵ liên quan ở đây?

 

Tâm trạng con người có những phút thật lạ. Đặc biệt là những kẻ hướng nội (tức thi sĩ thứ thiệt) họ có những nổi buồn nổi nhớ không tên, không đối tượng. Buồn để buồn, nhớ để nhớ, không nhất thiết phải buồn về việc ǵ, nhớ ai, cùng phái hay khác phái?

 

Chẳng hạn những câu ca dao:

 

-         Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng,

          Nước xao, trăng lặn, buồn chăng hởi buồn?

 

Hoặc:

 

-         Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ?

          Nhớ ai? Ai nhớ? Bây giờ nhớ ai?

 

Câu trên tả nổi buồn man mác. Câu dưới tả nỗi nhớ nhung man mác. Và Tiếu Phật có nhớ ai không? Câu trả lời là có. Tiếu Phật nhớ Lê Nguyên:

 

-         Học Sư phạm Đạm Huyện:  rất nhớ.

 

-         Làm Chính trị viên 8 năm kháng Nhật:  nhớ.

 

-         Làm trưởng pḥng Hành chánh:  rất nhớ.

 

Đấy là thời “trăng tṛn” của Lê Nguyên. Tiếp theo là chấm dứt thời “nguyệt măn” để nhận sự bất măn (trăng không đầy nữa).

 

-         Đại lục đổi chủ lúc ông đă 32 tuổi.

 

-         Giai đoạn bôn ba, xóa sạch 16 năm phấn đấu, vầng trăng trong ḷng ông “giảm thanh huy” liên tục như vầng trăng treo trên cửa sổ ngoài kia. Có “giảm thanh huy” th́ vầng trăng của ngoại cảnh mới phù hợp với vầng trăng nội tâm. Nếu chỉ có cảnh suông mà không có tâm phụ họa th́ cảnh ấy mất cả chất thơ. Phật Cười không thể “cạn nghĩ” như vậy được!

 

Ở đây c̣n chứa một thú vị về thủ pháp gây huyễn hoặc cho người đọc.

 

Theo luận lư th́ “rèm cuốn, cửa sổ treo” là thuận với ngữ cảnh, bảo cái này là thế này tất cái kia phải thế kia, tức cửa sổ bị treo như rèm bị cuốn. Thế nhưng ở đây là trăng treo chứ không phải cửa sổ treo!

 

Câu 5: Bút hạ lệ ngân hồng tự huyết,   (笔下泪痕红似血)

(Ngấn lệ dưới ngọn bút đỏ như máu)

 

Tác giả tự chú thích ḿnh viết câu ấy để miêu tả việc dùng bút đỏ chữa bài.

 

Chú thích như vậy cốt để đối phó với đường lối “bất tranh” của tờ Á châu.

 

Tuy chưa xảy ra chuyện phiền phức đáng tiếc nào nhưng trong ṭa soạn có một ông có quá khứ 8 năm chính trị viên, 4 năm làm viên chức chính quyền th́ “máu” lắm, chưa chắc chăm chỉ “vẽ hồ lô”. Ông không chú thích để đối phó, rất dễ gây e dè ngán sợ cho giới lănh đạo, nhất là chính quyền Diệm sẵn nghi ngờ đám t́nh báo quốc tế chui vào ṭa soạn.

 

Chú thích chỉ v́ lư do cầu an, mong người đọc thơ đừng… để ư theo dơi tác giả “đấu tranh” cho phe phái nào.

 

Câu 6: Đăng tiền hăn ảnh bích như châu.   (灯前汗影碧如珠)

(Mồ hôi trước đèn biếc như ngọc)

 

Lẽ nào ông Tiếu Phật lại có mồ hôi xanh? Không. Ông chỉ nói “hăn ảnh” hay là nói “cái bóng của mồ hôi” thôi. Với người biên tập, càng vă mồ hôi th́ bài viết càng tăng chất lượng. Vậy mồ hôi chảy ra lúc 12 giờ khuya ấy quư vô cùng, nó là thứ ngọc liên thành, là châu báu cho bài báo.

 

Câu 7: Liệu cơ trĩ nhược ngao ngai đăi,   (疗饥稚弱嗷嗷待)

(Con dại vợ yếu nhao nhau chờ  chữa đói)

 

Cái ăn mới bức bách làm sao! Và Phật Cười cũng khổ tâm biết bao!

 

Câu 8: Hảo tự đang tâm phúc thúc ngu.   (好自当心覆鍊溪)

(Hệt như nỡ ḷng úp chảo đồ ăn)

 

Cảnh ngộ đến thế mới đáng gọi là cảnh ngộ bi đát. Lúc nào Tiếu Phật cũng có thứ cảm giác xót xa là gia đ́nh ḿnh như cả một tổ chim đói mồi. Sự thật trần trụi ấy đổ lên số phận một kẻ muốn làm những việc lớn lao.

 

Bài thơ chứa đựng tất cả nỗi niềm bất đắc chí của một kẻ sĩ gặp bước đường cùng tê tái. Phật Cười không c̣n nữa nhưng thơ ông vẫn c̣n sống măi trong ḷng người đọc.

 

 

 

Chi Nhất  之一  dịch và b́nh

Việt Nam, 10/2008

 

 

 

 

请阅读吳文赖老师佳作 * Xin mời đọc một số tác phẩm cuả Giáo Sư Ngô Văn Lại.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

***  投稿電子郵件請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

http://www.KhaiMinh.org

 

 

 

啓明网站  |  Copyright © 2004 - 2008 KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer